Hình Ảnh Cột Phải
SỐ LƯỢT TRUY CẬP
số người truy cậpsố người truy cậpsố người truy cậpsố người truy cậpsố người truy cậpsố người truy cậpsố người truy cập
số người truy cậpHôm nay: 325
số người truy cậpHôm qua: 294
số người truy cậpTuần này: 1409
số người truy cậpTháng này: 5547
số người truy cậpTổng số truy cập: 952431
số người truy cậpĐang online: 24
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ năm, 14/05/2015 | 22:16 GMT+7
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chỉ rõ: Cùng với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam. Đó là sự khẳng định một chân lý lịch sử, một bước phát triển hết sức quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta, một quyết định rất đúng đắn và hợp lòng người.
 
Những năm qua, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được triển khai ngày càng sâu rộng, đạt những kết quả đáng khích lệ, thể hiện ở hàng nghìn bài viết, đầu sách, trong đó có những công trình khá dày dặn và có chất lượng cao. Tuy nhiên, tư tưởng Hồ Chí Minh vô cùng phong phú, sâu sắc, vì vậy, thành quả nghiên cứu mới chỉ là bước đầu. Mong rằng, bài nghiên cứu này góp phần làm sâu thêm những nhận thức của chúng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản tinh thần vô giá của Đảng ta, nhân dân ta và của dân tộc ta.
Nguyễn Ái Quốc (hàng đầu, bên trái) với một số đại biểu dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 5 (tháng 7-1924). Ảnh tư liệu
 
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành từ những điều kiện lịch sử nhất định. Từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, thực hiện việc phân chia thế giới và hình thành hệ thống thuộc địa của chúng. Bước sang thế kỷ 20, thế giới bị phân chia bởi một nhóm mấy cường quốc làm giàu bằng cách cướp bóc đại quy mô và áp bức các thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân trở thành một trong những mâu thuẫn cơ bản của thời đại đế quốc chủ nghĩa. Phong trào giải phóng dân tộc trở thành lực lượng cách mạng quan trọng của thời đại, đồng minh tự nhiên của phong trào cách mạng vô sản. Khẩu hiệu do C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu lên: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” được V.I.Lê-nin bổ sung và phát triển thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”.
 
Bị áp bức, bóc lột nặng nề, các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa không ngừng vùng dậy đấu tranh chống đế quốc để giành độc lập, tự do. Song, cho đến Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào giải phóng dân tộc chưa đủ sức làm lung lay nền móng hệ thống thuộc địa; một mặt, do chủ nghĩa đế quốc còn tương đối mạnh; mặt khác, do phong trào giải phóng dân tộc chưa kết hợp được với phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa.
 
Chiến tranh đế quốc làm cho các thuộc địa lâm vào tình cảnh vô cùng điêu đứng. Trong lúc các dân tộc bị áp bức đang sống cuộc đời tối tăm thì “tiếng sấm Cách mạng Tháng Mười Nga đã vang dội làm chấn động toàn thể địa cầu"(1). Được Cách mạng Tháng Mười nêu gương, cổ vũ, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ khắp nơi, đặc biệt là ở châu Á.
 
Việt Nam là một dân tộc có mấy nghìn năm văn hiến. Nhân dân Việt Nam giàu truyền thống yêu nước, bất khuất. Song, chế độ phong kiến suy tàn, khủng hoảng, phản động đã làm suy kiệt tiềm lực quốc gia. Lợi dụng tình hình ấy, thực dân Pháp xâm lược nước ta, biến nước ta từ một nước phong kiến thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chúng thi hành các chính sách áp bức, bóc lột cực kỳ dã man, thâm độc. Không cam chịu khuất phục, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống ách thống trị của bọn thực dân và bọn phong kiến tay sai. Nhưng mọi phong trào yêu nước, từ phong trào Cần Vương đến các phong trào yêu nước có xu hướng tiểu tư sản, tư sản đều hoàn toàn bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”(2). Lịch sử đòi hỏi bức thiết phải có một hệ tư tưởng mới, một con đường mới cứu nước, đủ sức dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng.
 
Bằng thiên tài trí tuệ, lòng yêu nước, thương dân mãnh liệt, ý chí gang thép, đạo đức vô song, Hồ Chí Minh đã đáp ứng yêu cầu lịch sử. Sau 10 năm bôn ba tìm đường, Hồ Chí Minh đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn. Cùng với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành ngọn đèn pha soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đưa Việt Nam từ một dân tộc thuộc địa lên hàng các dân tộc cách mạng tiên phong trên thế giới, đã chứng minh tính khoa học, tính sáng tạo vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
Giá trị lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh không giới hạn trong đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn soi sáng con đường phát triển đất nước ta, trong hiện tại và cả tương lai. Những năm qua, trước bao diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và nhiều khó khăn trong nước, nhờ kiên định và vận dụng đúng đắn Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, vượt qua khủng hoảng, tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn.
 
2. Nhiều nhà khoa học đã phân tích kỹ, đưa ra những luận giải xác đáng để chứng minh ba nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh: Một là, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; hai là, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây; ba là, Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và đây là nhân tố quyết định nhất.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(3).
 
Các dân tộc đều có lòng yêu nước. Song, truyền thống yêu nước Việt Nam có những nét đặc sắc: Một là, tinh thần độc lập tự chủ, anh dũng bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới ở vào hoàn cảnh lịch sử phải đấu tranh trường kỳ như thế, gay go, quyết liệt như thế để chống ngoại xâm, để bảo vệ độc lập, tự do, bản sắc và phẩm giá dân tộc như dân tộc Việt Nam. Hai là, giàu tính cộng đồng, tính nhân dân, tính nhân bản. Trong tư tưởng, tình cảm yêu nước Việt Nam ngay thời phong kiến, nước chủ yếu không phải là vua mà trước hết là dân, là đồng bào, là phẩm giá dân tộc và phẩm giá con người. Ba là, do hai đặc tính trên, tư tưởng yêu nước truyền thống Việt Nam có xu hướng gắn với tiến bộ xã hội. Tư tưởng yêu nước Việt Nam chứa đựng khát vọng về tự do, công bằng, bình đẳng xã hội của nhân dân. Các vị anh hùng dân tộc đều có đường lối ít nhiều đáp ứng khát vọng ấy. Nhân dân Việt Nam yêu đất nước mình nhưng không ích kỷ, hẹp hòi dân tộc mà tôn trọng các dân tộc khác, khoan dung và quý trọng tình hòa hiếu.
Từ tuổi thanh niên, Hồ Chí Minh đã là một trong những người con yêu nước ưu tú nhất, tiêu biểu nhất của dân tộc. Tất cả ý nghĩa cuộc sống đối với Người lúc đó là cứu nước, giải phóng dân tộc, cứu đồng bào bị đọa đày, đau khổ. Người coi đấy là lẽ sống thiêng liêng nhất. Đối với Người, tất cả mọi kế sách đều vô nghĩa nếu không nhằm tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc. Cả cuộc đời, Người “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(4). Hồ Chí Minh lúc thiếu thời rất khâm phục tinh thần yêu nước, xả thân vì nước của các sĩ phu văn thân, các chí sĩ như: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Nhưng tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh thời trẻ, ngay khi chưa gặp CNXH, đã thể hiện có tầm vượt trước những quan niệm cứu nước đương thời. Bởi đó là một tư tưởng yêu nước sáng suốt, có tính phê phán, không bảo thủ. Nó hướng tới việc tìm con đường thật sự cách mạng và khoa học, dẫn tới mục tiêu triệt để giải phóng dân tộc. Đó là tư tưởng yêu nước mang đậm tính nhân dân, tính nhân bản. Cứu nước trước hết là cứu hàng triệu “đồng bào bị đọa đày”, những “người cùng khổ”. Trong quan niệm về mục tiêu cứu nước của Hồ Chí Minh (khi chưa là người mác-xít), nước độc lập phải đi đôi với dân được hưởng quyền tự do, ấm no, hạnh phúc. Rõ ràng, mục tiêu ấy không thể tìm thấy ở con đường cứu nước trên lập trường phong kiến và cả trên lập trường tư sản hay tiểu tư sản. Ở tuổi 13, cũng như một số nhà yêu nước đương thời, Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn bởi khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Song, khác các vị ấy, Hồ Chí Minh muốn tìm hiểu đến tận nơi “cái gì ẩn đằng sau” những từ đẹp đẽ ấy, không chỉ trên lý thuyết mà ngay trên thực tế. Với một hoài bão và lòng yêu nước như thế làm hành trang, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Như vậy là, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đang đòi hỏi được đổi mới là tiền đề tư tưởng đưa Hồ Chí Minh đến một cách tự nhiên với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đáp ứng yêu cầu bức xúc của lịch sử lúc đó là phải xác định một đường lối cứu nước mới đúng đắn. Tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh phản ánh yêu cầu giải phóng bức xúc của dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa nói chung.
Tư tưởng càng vĩ đại khi nguồn gốc của nó càng sâu xa, cơ sở của nó càng rộng lớn. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ kết tinh những giá trị dân tộc mà còn bắt nguồn từ tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây mà Người đã thâu thái được. Nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài xem Hồ Chí Minh là một điển hình của các bậc hiền triết phương Đông. Cốt cách phương Đông của Người không chỉ ở văn hóa ứng xử mà còn thể hiện ở phương pháp, phong cách tư duy và hành động, ở sự am hiểu sâu sắc và tinh tế những vấn đề lịch sử cũng như những vấn đề nóng hổi đương đại của các dân tộc phương Đông như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Lào, Cam-pu-chia...
Nền học vấn đầu tiên mà Người tiếp nhận là Nho học. Đến tuổi thanh niên và cả thời kỳ hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm nghiên cứu các giá trị phương Đông. Trong các hệ tư tưởng cổ truyền, dễ nhận thấy Hồ Chí Minh nhắc nhiều tới Nho giáo trong các bài viết, bài nói của mình. Theo thống kê của một số nhà nghiên cứu, trong Toàn tập của Hồ Chí Minh, có tới khoảng 100 lần Người nhắc đến các luận điểm, cách ngôn của Khổng Tử, Mạnh Tử. Lúc này, Hồ Chí Minh dẫn lời Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Lúc khác, Người dẫn Mạnh Tử: “Ai cũng tham thì nước sẽ nguy”. Chỉ riêng một luận điểm của Nho giáo là: “Tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc” (lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ), tính ra Hồ Chí Minh đã nhắc tới 14 lần ở những thời điểm khác nhau và với những cách diễn đạt khác nhau. Theo Người, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, đạo đức người cộng sản cũng phải như thế.
 
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra những hạn chế lớn của Nho giáo, như phân chia đẳng cấp, coi thường phụ nữ, khinh lao động chân tay... Hồ Chí Minh căn bản không dùng học thuyết Khổng Tử để cải tạo xã hội, song Người nói: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”(5). Người cho rằng, để kế thừa những cái hay trong tư tưởng các bậc tiền bối cần theo phương pháp Lê-nin. Người nói: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại. Lê-nin dạy chúng ta như vậy”(6). 
 
Hồ Chí Minh sử dụng không ít mệnh đề và thuật ngữ Nho giáo, song chúng ta không đồng tình với quan điểm cho rằng: “Hồ Chí Minh chở Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên cỗ xe Nho giáo”, rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là sự hội tụ giữa học thuyết Khổng Tử với học thuyết Mác. Hồ Chí Minh tiếp thụ Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước cách mạng, mà yếu tố này tuyệt nhiên không có trong học thuyết Khổng Tử. Người không bài bác những yếu tố tiến bộ trong đạo Nho, nhưng sử dụng chúng có phê phán và cải tạo lại nội dung trên cơ sở thế giới quan Mác - Lê-nin và nhân sinh quan cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đoàn nhà báo của Đảng Cộng sản I-ta-li-a (tháng 5-1959). Ảnh tư liệu
 
Từ tuổi thiếu niên, Hồ Chí Minh đã tiếp cận những yếu tố văn hóa phương Tây qua trường học Pháp - Việt. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người đã đến tất cả các nước lớn ở phương Tây như: Pháp, Anh, Mỹ, Đức, I-ta-li-a... Mang đậm cốt cách nhà hiền triết phương Đông, nhưng Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng văn minh phương Tây. Trong giao tiếp, ứng xử hay biểu đạt tư duy, khi cần, Người cũng tỏ ra đầy bản lĩnh, hiểu biết và phong cách phương Tây. Đúng hơn và phải nói rất tinh vi là một nhận xét có giá trị phát hiện của nhà báo Ô-xíp Man-đen-xtam từ năm 1923 như sau: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(7).
 
Nguồn văn hóa phương Tây tác động tới Hồ Chí Minh trước hết phải kể đến tư tưởng “Tự do, bình đẳng, bác ái” mà giai cấp tư sản thời đang lên đã nêu cao để tập hợp lực lượng lật đổ chế độ phong kiến. Những tư tưởng đó cũng trở thành giá trị của nhân loại, mặc dầu trong nguồn gốc ra đời nó thể hiện lợi ích của giai cấp tư sản. Hồ Chí Minh kể lại: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái... Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” (8).
 
Khi Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chưa thâm nhập Việt Nam, những người yêu nước Việt Nam hết sức ngưỡng mộ Đại cách mạng Pháp 1789. Anh thanh niên Nguyễn Tất Thành cũng rất muốn tìm hiểu để xem nó có thể giúp ích gì cho công cuộc giải phóng đồng bào. Có thể nói, sức hấp dẫn đối với Nguyễn Tất Thành không phải đường lối, cách làm của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu; cũng không phải lá cờ cải lương tư sản của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (Trung Quốc) mà chính là những tư tưởng tiến bộ của Đại cách mạng Pháp 1789, mặc dầu ngay từ đầu, Người đã cho rằng phải tìm hiểu đến cả mặt hạn chế của nó. Đây là một trong những nguyên nhân thúc đẩy Hồ Chí Minh đi Pháp vào năm 1911. Người kể với nhà báo Ô-xíp Man-đen-xtam: Bọn Pháp “giấu không cho người nước tôi xem sách, báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rút-xô và Mông-te-xki-ơ cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”(9).
 
GS NGUYỄN ĐỨC BÌNH, Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
(1). Hồ Chí Minh toàn tập, t.9, tr.314.
(2). Hồ Chí Minh toàn tập, t.10, tr.3.
(3). Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, tr.171.
(4). Hồ Chí Minh toàn tập, t.4, tr.161.
(5). Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, tr.46.
(6). Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, tr.46.
(7). Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.477, 478.
(8). Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.477.
(9). Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.476 - 479.

Nguồn: Báo điện tử Quân đội nhân dân